Tre Bát Độ mở lối thoát nghèo và giữ bình yên cho bản làng vùng cao
Từ những quả đồi cằn cỗi chỉ toàn đá sỏi, tre Bát Độ đang trở thành “cây chủ lực” giúp đồng bào nhiều tỉnh miền núi thoát nghèo bền vững.
Không chỉ mang lại nguồn thu ổn định, loài tre này còn góp phần giữ đất, chống sạt lở, ngăn ngừa tệ nạn xã hội và tạo sinh kế tại chỗ để người dân không phải tha hương.
Hành trình hồi sinh những quả đồi “chết”
Ở nhiều vùng cao Tây Bắc, tre Bát Độ được coi là “cây của sự bền bỉ”. Khả năng sinh trưởng mạnh, ít sâu bệnh, chịu hạn tốt và gần như không cần chăm bón giúp tre trở thành lựa chọn lý tưởng để phủ xanh đất trống đồi trọc – vấn đề tồn tại nhiều năm tại các tỉnh nghèo.
Ông Phàn Seo Sử – cán bộ kiểm lâm xã Vĩnh Yên, tỉnh Lào Cai – nhớ rõ những quả đồi từng bị xói mòn nghiêm trọng: “Ngày trước mưa xuống là đất đá trôi như lũ. Không ai nghĩ có thể trồng được gì trên đó. Khi đưa tre Bát Độ vào, chúng tôi cũng chỉ hy vọng nó sống được. Ai ngờ chỉ sau 2-3 năm, cả quả đồi đổi màu”.

Bộ rễ tre lan rộng, ăn sâu giúp giữ đất, chống trượt lở hiệu quả. Nhiều diện tích từng bị coi là “đồi chết” nay đã biến thành rừng tre xanh mướt, cải thiện vi khí hậu, giữ nước ngầm và hạn chế dòng chảy xiết mùa mưa lũ. Chính quyền các địa phương đã đưa tre Bát Độ vào kế hoạch phát triển lâm nghiệp gắn với giảm nghèo, xem đây là cây trồng chiến lược giúp ổn định sinh kế vùng khó.
Thực tế ở nhiều bản vùng cao cho thấy tre Bát Độ mang theo cơ hội thoát nghèo bền vững. Nhờ chu kỳ thu hoạch măng quanh năm, tre tạo ra nguồn thu đều đặn, giảm rủi ro so với cây lâm nghiệp truyền thống.
Gia đình anh Lầu A Vừ (xã Nậm Có) từng nằm trong danh sách hộ nghèo lâu năm. 3 ha đất phía sau nhà bỏ hoang vì cằn cỗi. Sau khi được dự án hỗ trợ giống tre, anh Vừ mạnh dạn trồng toàn bộ diện tích.
“Chỉ mong tre sống được, ai dè nó lên khỏe như con trâu núi”, anh Vừ cười nói. Từ năm thứ 3, rừng tre cho thu hoạch đều. Mỗi vụ măng anh bán được hơn 20 tấn, thu nhập khoảng 120–150 triệu đồng/năm. Nhờ đó, gia đình xây được nhà kiên cố, mua xe máy mới cho con đi học.

Anh bảo: “Trước nghèo quá, nhiều thanh niên bỏ bản đi làm thuê rồi sinh tật rượu chè, cờ bạc. Giờ có rừng tre, họ không đi đâu nữa. Ở nhà chăm tre, kiếm măng cũng đủ sống”.
Ở Lào Cai, câu chuyện của chị Lù Thị Dính (xã Bảo Yên) khiến nhiều phụ nữ vùng cao thêm vững tin. Chị từng định sang Trung Quốc làm thuê vì chật vật nuôi con. Năm 2020, nhờ Chương trình Mục tiêu quốc gia, gia đình chị được hỗ trợ 1,5ha tre giống.
“3 năm sau tre bắt đầu cho măng. Mỗi năm tôi lãi 60–80 triệu. Tôi bỏ luôn ý định đi làm xa. Ở nhà vừa trông con, vừa chăm tre, thấy cuộc sống yên tâm hẳn”, chị Dính nói.
Theo thống kê xã, sau khi phát triển vùng tre Bát Độ, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh; đặc biệt là phụ nữ và thanh niên có việc làm ổn định, không còn rời bản tìm việc tự phát như trước.
Tại Sơn La, ông Thào Seo Nhà (bản Nậm Pằn, xã Tông Lạnh) từng sống trong nỗi lo sạt lở đất mỗi mùa mưa. Năm 2019, bản đồng loạt trồng tre Bát Độ để chống lũ quét và phát triển kinh tế. Đến nay, thu nhập từ măng đem lại cho gia đình ông 70–90 triệu đồng/năm, đời sống ổn định hơn.
Ông Nhà chỉ tay về phía đồi nói: “Ngày trước, mưa là cả bản thấp thỏm. Giờ đất chắc lại, mưa lớn cũng ít trôi. Tre cứu cả bản”.
Giữ rừng – giữ người, đẩy lùi tệ nạn xã hội
Một trong những thay đổi lớn nhất mà tre Bát Độ đem lại chính là tạo việc làm tại chỗ, giúp người dân không phải bỏ quê đi làm thuê – nguyên nhân dẫn đến hàng loạt vấn đề xã hội: tín dụng đen, cờ bạc, rượu chè, thậm chí bị lừa bán lao động.

Ông Bàn Quang Huy – Chủ tịch UBND xã Vĩnh Yên nhận định: “Ngày trước, cứ đến nông nhàn là thanh niên kéo nhau đi làm xa. Nhiều em sa vào tệ nạn do thiếu quản lý. Từ khi có tre, mỗi hộ đều có việc làm quanh năm. Thu nhập ổn định giúp bản làng bình yên hơn rất nhiều”.
Các tổ tự quản ở bản cũng cho biết nghiện ma túy, trộm cắp giảm rõ rệt sau khi vùng tre phát triển. Người dân không phải vào rừng khai thác lâm sản trái phép, giảm áp lực lên rừng tự nhiên – vốn đang bị đe dọa bởi tình trạng phá rừng lấy củi và săn bắt trái phép.
Ở bản Nậm Pằn (Sơn La), chị Mùa Thị Chía, thành viên tổ phụ nữ bảo vệ môi trường, chia sẻ: “Có tre rồi, phụ nữ tụi tôi không phải vào rừng nhặt củi hay đào măng tự nhiên nữa. Đồi tre gần bản vừa an toàn, vừa giữ lại được rừng già. Tệ nạn cũng ít hẳn”.
Tre, theo nhiều cán bộ cơ sở, đã trở thành “lá chắn kép”: vừa giữ đất – giữ người, vừa chặn đứng nguy cơ tệ nạn vốn từng len lỏi vào các bản vùng sâu vùng xa.
Nâng giá trị từ rừng
Sự phát triển của công nghiệp chế biến tre ở Tây Bắc đã giúp nâng giá sản phẩm, tạo chuỗi giá trị khép kín. Ngoài măng, tre còn được chế biến thành đồ thủ công, nội thất tre ép, than hoạt tính, viên nén sinh học… tạo thêm việc làm tại địa phương.

Ông Kim Văn Sơn – chủ cơ sở thu mua và chế biến tre tại Lào Cai cho biết - luôn ưu tiên thu mua tại bản để giảm chi phí vận chuyển cho người dân.
“Măng tre Bát Độ có chất lượng tốt, giòn, thơm, dễ chế biến nên thị trường rất chuộng. Chúng tôi cam kết thu mua quanh năm, giúp bà con không lo bị ép giá”.
Nhiều doanh nghiệp còn kết nối thị trường sang Hàn Quốc, Nhật Bản, mở ra hướng xuất khẩu cho sản phẩm tre Việt Nam.
Tương tự, nhiều xã ở Sơn La đang thí điểm mô hình kinh tế tuần hoàn từ tre: măng dùng để chế biến thực phẩm; thân tre sản xuất ván ép, đồ gia dụng; lá tre ủ phân sinh học. Mô hình này không chỉ nâng giá trị kinh tế mà còn giảm rác thải nông nghiệp, góp phần giữ môi trường sạch.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, tre Bát Độ đang chứng minh vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường. Khả năng hấp thụ CO₂ gấp 4 lần cây gỗ thông thường, tái sinh nhanh và bám đất tốt giúp tre trở thành “vũ khí tự nhiên” chống xói mòn, sạt lở.
Tại Lai Châu, nhiều bản từng là điểm nóng thiên tai nay đã ổn định nhờ phủ xanh tre. Các dòng suối bớt đục, lượng bùn đất trôi giảm. Đến mùa mưa, người dân không còn phải thức trắng đêm lo sạt lở như trước.
Ông Phàn Seo Sử cho biết: “Bà con có tre thì hạn chế chặt củi từ rừng tự nhiên, sinh kế lại ổn định nên không phá rừng trái phép. Bảo vệ môi trường không phải bằng khẩu hiệu, mà bằng chính sinh kế thực tế”.
Màu xanh của sự đổi thay
Giữa những triền núi trước kia hoang hóa, những rừng tre Bát Độ giờ đây vươn thẳng, xanh mướt, mang theo niềm hy vọng mới. Người dân vùng cao đã nhìn thấy tương lai ngay trên mảnh đất của mình – không phải tha hương, không phải vay mượn, không còn thấp thỏm lo sạt lở.
Anh Lầu A Vừ – người từng nghèo nhất bản – nói câu khiến ai nghe cũng thấy ấm lòng: “Ngày xưa chỉ mong đủ ăn. Nay có tre, tôi mong con cái được học hành tử tế. Tre nuôi cả nhà tôi”.
Mùi măng tre thơm dịu, tiếng lá tre rì rào mỗi sáng, giờ không chỉ là âm thanh quen thuộc của núi rừng, mà còn là lời khẳng định: sinh kế xanh, môi trường sạch, bản làng bình yên – hoàn toàn có thể khi người dân được trao đúng “cây cần câu”.



