Cần chính sách đột phá cho nhà giáo vùng dân tộc thiểu số
Đại biểu Quốc hội Bế Minh Đức nhấn mạnh, cần có chính sách đột phá cho nhà giáo vùng dân tộc thiểu số; đổi mới cơ chế thu hút nhà giáo về công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Chiều 2/12, thảo luận tại Quốc hội về Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 – 2035, ĐBQH Bế Minh Đức (đoàn Cao Bằng) nhận thấy, tại điểm b, khoản 1, Điều 1 đặt mục tiêu đến năm 2035 các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai thực hiện dạy và học đưa tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai trong trường học.
Để bảo đảm tính toàn diện và không còn khoảng trống về đầu tư, đại biểu đề nghị nghiên cứu, sử dụng định lượng rõ ràng, phù hợp với mục tiêu “100% cơ sở giáo dục đạt chuẩn về cơ sở vật chất”, để khẳng định cam kết về sự đồng bộ và công bằng.

ĐBQH Bế Minh Đức (đoàn Cao Bằng) phát biểu.
Bên cạnh đó, đại biểu Bế Minh Đức nhấn mạnh, cần có chính sách đột phá cho nhà giáo vùng dân tộc thiểu số; đổi mới cơ chế thu hút nhà giáo về công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Thực tế đã cho thấy, vấn đề cốt lõi của giáo dục vùng dân tộc thiểu số là chảy máu chất xám và thiếu giáo viên cắm bản có năng lực. Nhưng, theo đại biểu phân tích, tại mục 1, điểm b, khoản 1, Điều 1 của dự thảo mới đặt ra mục tiêu cụ thể về hoàn thiện cơ sở vật chất đến năm 2030, chưa có mục tiêu cụ thể về giáo viên thực hiện Chương trình, chỉ quy định “từng bước bảo đảm”.
Đại biểu đề nghị phải xác định mục tiêu cụ thể và xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù, giải pháp căn cơ nhằm bảo đảm về nguồn nhân lực là giáo viên cho mục tiêu lâu dài trong Chương trình.

Các đại biểu tham dự phiên họp.
Để thực hiện đạt các mục tiêu đề ra, đại biểu cho rằng cần có cơ chế và giải pháp về biên chế đội ngũ giáo viên phải được bố trí đủ ở mọi cấp học, mọi lớp học, kể cả vùng sâu, vùng xa ngay từ giai đoạn đầu triển khai Chương trình. Bởi, thực tế ở tỉnh Cao Bằng cho thấy, năm học 2025 - 2026, tỉnh cần 14.031 viên chức, trong khi biên chế được giao chỉ 11.825 người, thiếu 2.206 viên chức so với định mức.
“Chúng ta đầu tư hàng nghìn tỷ đồng để xây dựng trường lớp, nhưng nếu không có đủ giáo viên đứng lớp, đội ngũ giáo viên không tiếp cận đủ thông tin, kiến thức, thì mọi khoản đầu tư vật chất đều không thể phát huy hiệu quả”, đại biểu nhấn mạnh.
Thực tế, tại 5 dự án thành phần của Chương trình, phần phân bổ kinh phí cho nội dung này đều có phần khiêm tốn, đại biểu đề nghị nghiên cứu có ưu tiên thỏa đáng đầu tư cho đào tạo đội ngũ giáo viên, bảo đảm đủ về số lượng, được nâng tầm về chất lượng, thích ứng với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Các đại biểu tham dự phiên họp. Ảnh: Quang Khánh
“Đầu tư vào giáo viên là đầu tư mang lại lợi ích kép, vừa nâng cao chất lượng giáo dục, vừa bảo đảm công bằng xã hội. Nếu dự thảo Nghị quyết này thực sự đi tiên phong trong việc kiến tạo một chính sách đãi ngộ giáo viên vùng dân tộc thiểu số mang tính đột phá, chúng ta sẽ tạo ra một cú hích lịch sử, tháo gỡ vướng mắc lớn nhất bấy lâu nay, mang lại cơ hội phát triển thật sự cho vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số”, đại biểu Bế Minh Đức nhấn mạnh.
Để thực hiện mục tiêu đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, ĐBQH Hà Ánh Phượng (đoàn Phú Thọ) lưu ý cần chú ý đến các điều kiện bảo đảm để tránh “thiết bị đi trước - con người theo sau” hoặc ngược lại.
Đại biểu cũng nhấn mạnh, “dạy tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ 2 trong trường học” không giống với dạy “tiếng Anh như một ngoại ngữ”. Việc đầu tư cơ sở vật chất ở các cấp học phụ thuộc rất nhiều về sự khác biệt này. Do vậy cần ưu tiên triển khai theo lộ trình phân tầng và bảo đảm công bằng vùng miền.
Theo đại biểu Hà Ánh Phượng, khoảng cách không chỉ là thiết bị, mà còn là số lượng và chất lượng giáo viên, chương trình học, mức độ dạy học đưa tiếng Anh như ngôn ngữ trong trường học sẽ khác nhau ở các vùng miền và giữa các cấp học khác nhau. Thực tế, Quyết định số 2371/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định với phạm vi và lộ trình riêng.

Các đại biểu tham dự phiên họp.
Ngoài ra, cũng cần phân bổ hợp lý nguồn lực cho việc bồi dưỡng, thu hút đội ngũ giáo viên tiếng Anh đủ về số lượng và chất lượng, phù hợp với từng khu vực, đẩy mạnh cơ chế phân cấp, phân quyền, giao quyền chủ động cho địa phương, các cơ sở giáo dục được tự quyết định và chịu trách nhiệm trong việc đầu tư cơ sở vật chất, tránh tình trạng việc mua sắm thiết bị không phù hợp với nhu cầu, nhanh lạc hậu, xuống cấp.
Từ những lý do nêu trên, đại biểu đề nghị sửa quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 1 của thành “đến năm 2035, 100% cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông đạt điều kiện dạy tiếng Anh chất lượng chuẩn quốc gia; trong đó tỷ lệ cơ sở triển khai mô hình tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai bảo đảm phù hợp điều kiện địa bàn và mục tiêu công bằng giáo dục”.



