A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Cải cách tiền lương: Cần có một quyết định đột phá!

Câu chuyện tăng lương cho công chức, viên chức đang trở thành tâm điểm trong các phiên thảo luận của Quốc hội những ngày qua. Nhiều đại biểu cho rằng, đây không chỉ là nhu cầu cấp bách để bảo đảm đời sống cán bộ, mà còn là phép thử năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động của khu vực công trong giai đoạn mới.

Cải cách tiền lương không chỉ là chuyện “tăng bao nhiêu”, mà là nâng cao năng lực quản lý và phục vụ của Nhà nước. Khi lương không đủ sống, khu vực công khó thu hút, giữ chân người giỏi và nâng cao hiệu quả công vụ. Vì vậy, đợt cải cách tiền lương dự kiến từ ngày 1/1/2026 được kỳ vọng sẽ chuyển tư duy từ “chi phí” sang “đầu tư cho năng suất Nhà nước”.

Bộ Nội vụ đề xuất tăng lương tối thiểu

Bộ Nội vụ vừa đề xuất mức lương tối thiểu áp dụng từ ngày 1/1/2026 với vùng cao nhất là 5.310.000 đồng/tháng tại Nghị định quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động. Hiện dự thảo Nghị định đang được Bộ Tư pháp thẩm định.

Hiện tại, mức lương tối thiểu đang áp dụng theo Nghị định 74/2024/NĐ-CP tại vùng 1 là 4.960.000 đồng/tháng, vùng 2 là 4.410.000 đồng/tháng, vùng 3 là 3.860.000 đồng/tháng vùng 4 là 3.450.000 đồng/tháng.

10-11.jpg

Theo Bộ Nội vụ, Nghị định số 74/2024/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, với mức tăng bình quân 6% so với năm 2022. Tuy nhiên đến nay, Bộ Nội vụ nhận thấy có một số vấn đề đặt ra cần phải xem xét điều chỉnh mức lương tối thiểu. Trong đó, các yếu tố về kinh tế - xã hội, thị trường lao động, khả năng của doanh nghiệp có sự thay đổi theo hướng tích cực hơn.

Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) cả sáu tháng đầu năm 2025 đạt 7,52%, mục tiêu năm 2025 đạt 8% trở lên. Thị trường lao động ổn định và duy trì đà phục hồi; sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có xu hướng tốt hơn; tiền lương, thu nhập của người lao động tiếp tục ổn định và tăng lên, quý sau cao hơn quý trước.

Bên cạnh đó, giá trị thực tế của mức lương tối thiểu tại Nghị định số 74/2024/NĐ-CP bị suy giảm dần theo thời gian do chỉ số giá tiêu dùng tăng (CPI). Với dự kiến CPI năm 2025 và 2026 mỗi năm tăng 3,7% thì mức lương tối thiểu nêu trên sẽ không còn bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ đến hết năm 2026 (thấp hơn khoảng 6,6%).

Mức lương tối thiểu tại Nghị định số 74/2024/NĐ-CP được xác lập theo vùng và gắn với địa giới hành chính cấp huyện. Trong khi đó từ ngày 1/7, khi thực hiện sắp xếp lại các đơn vị hành chính trên cả nước, các địa bàn áp dụng lương tối thiểu đã được Chính phủ rà soát, điều chỉnh một bước gắn với đơn vị hành chính cấp xã mới.

Tuy nhiên, do đây là chính sách có tác động rộng đến nhiều đối tượng, gồm cả doanh nghiệp và người lao động, vì vậy, các địa bàn áp dụng lương tối thiểu theo đơn vị hành chính cấp xã cần tiếp tục được rà soát, cập nhật cho phù hợp tình hình thực tế tại các địa phương sau sắp xếp.

Hơn nữa, ngày 25/7, Hội đồng Tiền lương quốc gia đã có báo cáo gửi Chính phủ khuyến nghị điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%, áp dụng từ ngày 1/1/2026. Do đó, theo Bộ Nội vụ, việc xây dựng Nghị định quy định mức lương tối thiểu để áp dụng cho năm 2026 là rất cần thiết.

Dự thảo nghị định quy định việc điều chỉnh mức lương tối thiểu tăng 7,2% so với mức hiện hành, áp dụng từ ngày 1/1/2026. Đây là mức đề xuất trùng với phương án Hội đồng Tiền lương quốc gia thống nhất khuyến nghị Chính phủ. Các mức lương tối thiểu tháng theo bốn vùng gồm: Vùng I là 5,31 triệu đồng/tháng, vùng II là 4,73 triệu đồng/tháng, vùng III là 4,14 triệu đồng/tháng, vùng IV là 3,7 triệu đồng/tháng. Mức lương tối thiểu nêu trên tăng 250.000-350.000 đồng (tương ứng tỷ lệ bình quân 7,2%) so với mức lương tối thiểu hiện hành.

Bên cạnh đó, dự thảo cũng nêu quy định các mức lương tối thiểu giờ theo bốn vùng: Vùng I là 25.500 đồng/giờ, vùng II là 22.700 đồng/giờ, vùng III là 20.000 đồng/giờ, vùng IV là 17.800 đồng/giờ.

Bộ Nội vụ cho biết, mức điều chỉnh lương tối thiểu nêu trên cao hơn khoảng 0,6% so với mức sống tối thiểu của người lao động đến hết năm 2026 để cải thiện cho người lao động. Mức điều chỉnh này có sự chia sẻ, hài hòa lợi ích của người lao động và doanh nghiệp, vừa chú ý cải thiện đời sống cho người lao động, vừa chú ý đến việc bảo đảm duy trì và phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Phương án tăng lương này cũng đã tính đến bối cảnh kinh tế - xã hội và mức độ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất. Cụ thể, dự báo đưa ra là chi phí sản xuất tăng bình quân 0,5 - 0,6%. Trong đó, ngành dệt may, da giày được cho là có mức tăng cao hơn, khoảng 1,1 - 1,2%.

Mức điều chỉnh trên có sự chia sẻ, kết hợp hài hòa được lợi ích của người lao động và doanh nghiệp. Điều này hướng đến mục tiêu vừa chú ý cải thiện đời sống cho người lao động, vừa chú ý đến việc bảo đảm duy trì, phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Ngoài ra, việc tăng lương tạo điều kiện cho người lao động cải thiện cuộc sống, hỗ trợ tích cực cho hai bên. Doanh nghiệp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ, hạn chế các tranh chấp lao động tập thể, đình công phát sinh, góp phần tích cực cho việc duy trì ổn định trật tự xã hội.

Đối với mức lương tối thiểu theo giờ, Bộ Nội vụ cũng cho rằng, trường hợp lương tối thiểu tháng năm 2026 được Chính phủ thống nhất điều chỉnh tăng 7,2%, thì mức lương tối thiểu giờ cũng cần phải được xem xét điều chỉnh để bảo đảm sự đồng bộ của chính sách và quyền lợi của người lao động làm công việc linh hoạt, không trọn thời gian. Đánh giá tác động, Bộ Nội vụ cho biết, mức lương tối thiểu giờ chỉ là mức sàn thấp nhất để hai bên thỏa thuận, trả lương cho một giờ lao động.

Tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức phải ngang với mức sống trung bình của xã hội

Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa đề nghị cần có một quyết định đột phá về thu nhập và đãi ngộ theo nguyên tắc tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức phải ngang với mức sống trung bình của xã hội. Theo đại biểu, một thách thức khác rất lớn mà phải vượt qua, đó là yếu tố con người, là nguồn nhân lực - nhân tố quyết định thành bại của mọi đường lối, chủ trương và pháp luật. Riêng về đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, việc phân cấp, phân quyền chưa đi đôi với phân bổ đủ nguồn lực về nhân sự, tài chính, công nghệ và cơ sở vật chất. Đáng chú ý, tác động về tâm lý, tư tưởng của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là những người đang giữ chức vụ lãnh đạo là vấn đề cần quan tâm.

Đại biểu đề nghị phải có một quyết định đột phá về thu nhập và đãi ngộ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo nguyên tắc: Lương của cán bộ, công chức, viên chức phải ngang với mức sống trung bình của xã hội, không để cho họ trở thành tầng lớp có thu nhập thấp. Chỉ như vậy, họ mới có thể tập trung vào công việc, không phải lo toan mưu sinh, không phải làm thêm để trang trải cuộc sống. Cùng với thu nhập nâng lên cần thiết lập hệ thống KPI hợp lý, áp dụng chế độ lương, thưởng xứng đáng, chế tài nghiêm minh cho việc thực hiện KPI, đồng thời với những đãi ngộ hợp lý khác để phát huy năng lực, khơi dậy khát vọng cống hiến của đội ngũ này. Bên cạnh đó, để phát triển trong kỷ nguyên hiện tại, việc đào tạo và thu hút nhân tài là một nhu cầu bắt buộc và cấp bách cần phải tập trung thực hiện hiệu quả.

Theo báo cáo Chính phủ gửi Quốc hội về việc thực hiện các nghị quyết chất vấn trong lĩnh vực nội vụ, công tác tinh giản biên chế giai đoạn 2022-2026 đã đạt nhiều kết quả rõ rệt, cả về số lượng lẫn chất lượng. Biên chế công chức giảm 5.381 người, tương ứng 5,03% so với năm 2021; biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách giảm 18.119 người, tương ứng 15,17%.

Sau hơn 3 năm triển khai, cả hai chỉ tiêu giảm biên chế công chức và viên chức đều đạt và vượt kế hoạch. Đây là kết quả của việc Chính phủ và các địa phương thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp: giao biên chế theo vị trí việc làm, đẩy mạnh phân cấp, gắn tinh giản với sắp xếp bộ máy và chuyển đổi mô hình hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.

Cùng với tinh giản biên chế, ông Lê Quang Trung - nguyên Phó Cục trưởng phụ trách Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nay là Bộ Nội vụ) - cho rằng cải cách tiền lương nên được xem là đòn bẩy chiến lược trong việc giữ người giỏi ở trong bộ máy công chức.

Chính sách tiền lương xứng đáng là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút nhân tài vào các khu vực công; thể hiện sự ghi nhận, đáng giá và tôn vinh nhân tài; là động lực quan trọng để người tài gắn bó và cống hiến; góp phần tinh gọn bộ máy và nâng cao chất lượng cán bộ.

Do đó, việc cải cách tiền lương là một khâu đột phá trong việc thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài; có ý nghĩa chiến lược trong việc thu hút, sử dụng nhân tài và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.

Tại Nghị trường, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng thông tin: Chính phủ sẽ xem xét, cân đối nguồn lực và xin ý kiến các cấp có thẩm quyền, trong đó có Quốc hội, để tăng lương sớm hơn. Đây là tin vui đối với hàng triệu công chức, viên chức. Tăng lương là điều cần thiết. Bởi trong suốt nhiều năm qua, mặt bằng thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở mức thấp so với chi phí sinh hoạt. Điều đó dẫn tới một thực tế là người giỏi không mặn mà vào bộ máy Nhà nước và có những người làm việc thiếu động lực cống hiến, hiệu quả công vụ chưa tương xứng với kỳ vọng của Nhân dân.

Tuy nhiên, tăng lương chỉ thực sự có ý nghĩa khi đi cùng tăng trách nhiệm và năng suất lao động của khu vực công. Nếu chỉ nâng mức chi trả mà không thay đổi cách làm việc, cơ chế đánh giá và trách nhiệm giải trình, cải cách tiền lương sẽ chỉ là “đổ nước vào chiếc bình thủng”.

Lâu nay, lương thường được coi là chi phí, trong khi thực chất nó phải là đầu tư cho năng suất Nhà nước. Một bộ máy có thu nhập ổn định, có cơ chế thưởng phạt minh bạch sẽ hoạt động hiệu quả hơn, tạo ra giá trị công lớn hơn cho xã hội. Vì vậy, cải cách tiền lương phải được thiết kế đồng bộ với cải cách thể chế, tinh giản biên chế, xác định rõ vị trí việc làm và tiêu chí đánh giá kết quả đầu ra.

Khi nói “tăng lương phải đi đôi với tăng trách nhiệm”, điều đó có nghĩa mỗi vị trí công vụ phải được định danh trách nhiệm cụ thể. Không thể có chuyện “làm hay không làm cũng vậy”, “đến sớm hay muộn cũng thế”. Cán bộ hưởng lương cao hơn thì trách nhiệm cũng phải lớn hơn, giải quyết hồ sơ đúng hạn, giảm thời gian chờ đợi của người dân, tiết kiệm chi phí ngân sách, nâng mức độ hài lòng của người dân trong phục vụ. Những chỉ số đó cần được lượng hóa, theo dõi và công khai định kỳ.

Để tránh lãng phí nguồn lực, việc tăng lương phải đi kèm với kỷ luật chi tiêu và tinh gọn biên chế. Ngân sách không thể chịu nổi nếu lương tăng mà bộ máy vẫn cồng kềnh. Cần coi tăng lương là cơ hội để rà soát lại toàn bộ hệ thống phụ cấp, xóa bỏ các khoản chồng chéo, chuyển từ “phụ cấp hóa lương” sang “minh bạch hóa thu nhập”. Mỗi đồng lương tăng thêm phải được quy đổi thành năng suất cụ thể: Hồ sơ hành chính xử lý nhanh hơn bao nhiêu, sự hài lòng của người dân tăng lên thế nào. Ở góc độ dài hạn, tăng lương cần được nhìn như đòn bẩy cải cách toàn diện. Lương gắn trách nhiệm tạo nên động lực làm việc, còn lương gắn năng suất sẽ thúc đẩy đổi mới, sáng tạo trong phục vụ. Một nền hành chính hiện đại, liêm chính và vì dân chỉ có thể hình thành khi mỗi công chức thấy được giá trị của mình được ghi nhận đúng, nhưng cũng chịu trách nhiệm đến cùng với vị trí mà mình đang đảm nhiệm.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết