Nhiều nước châu Á tìm cách "cai nghiện" đồng USD: Có thể nhưng không dễ
Sự phụ thuộc vào đồng bạc xanh là sản phẩm phụ của mô hình phát triển dựa vào xuất khẩu.
Suốt 3 năm qua, đồng USD liên tục tăng giá. Với các nước châu Á, điều này làm tăng áp lực lạm phát và khiến dòng vốn chảy ra khỏi nhiều nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, ngày càng nhiều nhà lãnh đạo trong khu vực đang tìm cách giảm sự phụ thuộc của đất nước họ vào đồng bạc xanh.
Thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim nói với Nikkei Asia vào tháng trước: “Tăng trưởng tốt, tỷ lệ thất nghiệp thấp, lạm phát thấp và các khoản đầu tư đang đổ về đất nước. Vậy tại sao đồng ringgit lại thấp?
“Điều này đang đi ngược lại các nguyên tắc kinh tế cơ bản”, Thủ tướng Ibrahim nói và chỉ tay về phía Washington: “Lý do chính là Fed”.
Giá trị thực tế của các khoản đầu tư bằng đồng đô ở châu Á vẫn còn nhiều nghi vấn. Việc Trung Quốc bán 805 tỷ USD trái phiếu kho bạc Mỹ sẽ gây ra tổn thất nghiêm trọng do giá chứng khoán sẽ giảm và tỷ giá hối đoái sẽ bị ảnh hưởng. Việc chuyển số tiền lớn về nước như vậy cũng có thể làm mất ổn định giá trị của đồng nhân dân tệ. Các nhà đầu tư lớn khác ở châu Á cũng phải đối mặt với những vấn đề tương tự.
Điều quan trọng là các khoản thanh toán bằng đô la phải chảy qua hệ thống tài chính của Mỹ. Điều này cho phép Mỹ áp dụng luật của mình đối với các cá nhân và tổ chức ở nước ngoài. Từ đó, Washington ngày càng sử dụng các biện pháp trừng phạt, hạn chế thương mại và thậm chí tịch thu làm vũ khí kinh tế.
Điều này có thể được giải thích một phần bởi mô hình mà các nhà kinh tế gọi là bộ ba bất khả thi Mundell-Fleming. Mô hình này cho rằng các quốc gia phải lựa chọn giữa việc duy trì chính sách tiền tệ tự chủ, cho phép dòng vốn tự do di chuyển và có tỷ giá hối đoái cố định. Trong đó, chỉ hai trong số ba yếu tố này có thể đồng thời đạt được.
Các tiêu chí thiết yếu khác để xác định vị thế của một đồng tiền dự trữ bao gồm thị trường vốn sâu và thanh khoản; chất lượng tín dụng cao; cơ chế thanh toán bù trừ, lưu ký và chuyển nhượng phù hợp; có tính quản trị mạnh mẽ; khả năng thực thi pháp lý của các thỏa thuận; và được chấp nhận toàn cầu.
Các đối thủ tiềm năng, chẳng hạn như đồng nhân dân tệ và đồng euro, không đáp ứng được tất cả các tiêu chuẩn. Điều này có thể là do những người ra quyết định không sẵn sàng thỏa hiệp việc kiểm soát kinh tế quốc gia ở mức độ cần thiết.
Kết quả là không có sự kế thừa rõ ràng nào cho đồng đô la.
Các nhà xuất khẩu và nhập khẩu mỗi bên sẽ ưa chuộng đồng tiền của mình, dẫn đến bất đồng. Ấn Độ nhập khẩu nhiều hơn là xuất khẩu sang Trung Quốc. Nếu giao dịch của được tính bằng đồng rupee, điều này sẽ khiến Trung Quốc có lượng tiền dư thừa của Ấn Độ mà nước này sẽ phải tìm cách giải quyết. Ngoài ra, nếu thương mại được thực hiện bằng đồng nhân dân tệ, Ấn Độ sẽ phải bù đắp cho khoản thâm hụt phát sinh.
Sự phụ thuộc vào đồng đô la của châu Á là sản phẩm phụ của một mô hình kinh tế cụ thể và sự mất cân đối đi kèm mà nó mang lại.
Kể từ khi bãi bỏ chế độ bản vị vàng vào năm 1973, chỉ có Mỹ mới có khả năng hoạt động như một đồng tiền dự trữ toàn cầu.
Mô hình phát triển châu Á dựa vào tiết kiệm nhiều, xuất khẩu cao và đồng tiền bị định giá thấp. Người châu Á đã cho phép Mỹ đóng vai trò là người tiêu dùng cuối cùng. Đồng thời, tận dụng tiếp thặng dư thương mại của họ bằng cách đầu tư vào tài sản của Mỹ, từ đó tiếp tục thúc đẩy chi tiêu của Mỹ một cách hiệu quả. Một số người gọi đây là mô hình “Chimerica”.
Ngoài ra, tiết kiệm quốc gia cũng sẽ cần phải giảm. Để đạt được điều này có thể cần phải mở rộng mạng lưới phúc lợi vì thói quen tiết kiệm của người châu Á một phần được thúc đẩy bởi nhu cầu cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục và chăm sóc người già.
Vì các dòng vốn và thương mại có thể không được cân bằng hoàn hảo giữa các quốc gia nên cần phải phát triển song song các thị trường vốn trong nước và xuyên biên giới bằng các loại tiền tệ châu Á để có thể bơm vốn cho các dòng thương mại và đầu tư. Điều này sẽ đòi hỏi phải giảm bớt rào cản đối với quy định sở hữu nước ngoài.
Các bước thiết yếu khác hướng tới một mô hình kinh tế mới sẽ bao gồm củng cố các thể chế tài chính và cơ sở hạ tầng thị trường, cũng như cải thiện các quy định và quản trị.
Washington sẽ ít có khả năng sử dụng đồng đô la để gây áp lực kinh tế khi cuộc chiến giành quyền thống trị toàn cầu giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gia tăng.
Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long khẳng định không nên buộc châu Á phải đưa ra lựa chọn giữa hai cường quốc toàn cầu. Để duy trì quyền tự do hành động của khu vực, việc giảm sử dụng đồng đô la trong thương mại và cho tiết kiệm là rất quan trọng.
Để thực hiện được điều này sẽ đòi hỏi những thay đổi mang tính thách thức sâu sắc đối với các thỏa thuận chính trị, kinh tế và xã hội hiện có. Nhưng châu Á có rất ít sự lựa chọn. Nếu không tìm ra con đường mới, cơ hội tiến tới một thế kỷ châu Á sẽ không còn.
Nguồn: Nikkei