A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam năm 2025 không đến từ sự may mắn!

Năm 2025, dù đối mặt nhiều thách thức, Việt Nam vẫn được dự báo đạt mức tăng trưởng ấn tượng.

Trao đổi với phóng viên Báo Nhà báo và Công luận, Ths. Nguyễn Quốc Anh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính khẳng định: Sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam không đến từ sự may mắn.

Sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam không đến từ sự may mắn

Ông có thể cho biết, năm 2025, kinh tế Việt Nam đã phải đối mặt với những khó khăn, thách thức nào?

- Tôi cho rằng, trong năm vừa qua, Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, tuy nhiên có 4 thách thức lớn nhất.

Thứ nhất đó là sự bất định và phân mảnh của kinh tế toàn cầu. Trong năm vừa qua, kinh tế toàn cầu đối mặt với rất nhiều bất ổn do sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, căng thẳng thương mại, xung đột quân sự và bất ổn chính trị lan rộng.

Tại thời điểm tháng 7/2025, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng toàn cầu năm 2025 chỉ đạt 3,0%, thấp hơn mức trung bình thập kỷ trước đại dịch. Đáng chú ý, các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đều gặp khó khăn.

Cụ thể, Nhật Bản suy giảm nhẹ với GDP quý III/2025 giảm 0,4%, Hàn Quốc chưa có nhiều cải thiện với chỉ số PMI sản xuất giảm xuống 49,4 điểm trong tháng 10/2025. Với độ mở cao, kinh tế Việt Nam chịu tác động trực tiếp từ đà giảm tốc này.

Ths. Nguyễn Quốc Anh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính, Bộ Tài chính

Ths Nguyễn Quốc Anh, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính. Ảnh: NIEF.

Bên cạnh đó, trong năm 2025, nguy cơ lớn nhất đến từ sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ và chiến tranh thương mại. Mối lo ngại về việc Hoa Kỳ có thể áp dụng mức thuế 20% đối với hàng nhập khẩu đã tạo ra tâm lý e ngại cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

Ngoài ra, xu hướng phân mảnh thương mại, yêu cầu về tiêu chuẩn xanh, và cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) từ các thị trường phát triển đang tạo ra các rào cản kỹ thuật mới, làm gia tăng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ hai đó là áp lực từ thị trường tài chính và tiền tệ quốc tế. Mặc dù Fed đã bắt đầu chu kỳ giảm lãi suất, nhưng mặt bằng lãi suất USD vẫn neo ở mức cao. Điều này duy trì áp lực lên tỷ giá VND/USD và gây khó khăn cho công tác điều hành chính sách tiền tệ trong nước khi phải cân đối giữa việc giảm lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng và giữ ổn định tỷ giá.

Thêm vào đó, giá vàng thế giới liên tục phá đỉnh, kéo theo giá vàng trong nước tăng phi mã, gây ra rủi ro "vàng hóa" nền kinh tế, hút nguồn lực vốn ra khỏi khu vực sản xuất kinh doanh.

Thứ ba, điểm nghẽn thể chế trong giai đoạn chuyển tiếp. Một thách thức nội tại nổi bật trong năm 2025 là vướng mắc liên quan đến Luật Đất đai 2024. Việc chuyển đổi cơ chế định giá đất từ khung giá sang bảng giá sát thị trường đã gây ra cú sốc về giá tại nhiều địa phương như Đồng Nai, Đà Nẵng, Phú Thọ (tăng từ 2 đến 9 lần).

Hệ quả là chi phí giải phóng mặt bằng tăng vọt, làm đội vốn tổng mức đầu tư các dự án công và tư, đồng thời gây tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm trong bộ máy công quyền địa phương, dẫn đến ách tắc hồ sơ và làm chậm tiến độ triển khai dự án.

Cuối cùng, tác động của thiên tai và sức khỏe doanh nghiệp. Năm 2025 cũng ghi nhận những thiệt hại nặng nề do thiên tai. Các đợt bão lũ tại một số tỉnh miền Bắc, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên trong tháng 10-11 đã gây thiệt hại ước tính gần 99.900 tỷ đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và hạ tầng giao thông, làm gián đoạn chuỗi cung ứng cục bộ.

Về sức khỏe doanh nghiệp, mặc dù số lượng gia nhập thị trường tăng, nhưng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường cũng ở mức rất cao (190,6 nghìn doanh nghiệp trong 10 tháng, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước), phản ánh sự sàng lọc khắc nghiệt và sức chống chịu còn hạn chế của khu vực doanh nghiệp trước các biến động chi phí đầu vào và thị trường.

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động, thế nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng. Đơn cử, GDP cả năm 2025 được dự báo trên 8%, các động lực tăng trưởng như xuất nhập khẩu, FDI, tiêu dùng nội địa đều duy trì đà tăng ấn tượng, thậm chí là tăng mạnh. Vậy theo ông, đâu là những yếu tố then chốt giúp kinh tế Việt Nam duy trì được đà tăng trưởng như vậy?

- Mức tăng trưởng GDP dự báo trên 8% cho cả năm 2025, với quý III tăng cao 8,23%, được các tổ chức quốc tế như IMF, HSBC, Standard Chartered đánh giá cao và liên tục nâng mức dự báo. Sự bứt phá này không đến từ sự may mắn mà là kết quả của sự hội tụ các yếu tố nội lực và chính sách điều hành linh hoạt.

Thứ nhất, sự phục hồi đồng đều của các trụ cột kinh tế. Khác với sự phục hồi cục bộ của các năm trước, năm 2025 chứng kiến sự trỗi dậy đồng loạt của cả ba khu vực kinh tế.

Khu vực công nghiệp và xây dựng đã lấy lại vai trò dẫn dắt với ngành chế biến chế tạo tăng gần 10%, phản ánh sự phục hồi của các đơn hàng xuất khẩu điện tử, dệt may. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 8,49% nhờ du lịch bùng nổ (khách quốc tế đến Việt Nam tăng 21,5%) và tiêu dùng nội địa phục hồi mạnh mẽ với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 9,5%. Nông nghiệp tiếp tục là bệ đỡ vững chắc với mức tăng 3,83%, đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu.

Thứ hai, đột phá trong giải ngân đầu tư công. Đầu tư công thực sự đã đóng vai trò là "vốn mồi" dẫn dắt tăng trưởng. Trong 11 tháng năm 2025, chi đầu tư phát triển ước đạt khoảng 541,9 nghìn tỷ đồng, bằng 68,5% dự toán, tăng 36,3% so với cùng kỳ năm 2024.

Sự quyết liệt trong chỉ đạo của Chính phủ và Bộ Tài chính đã tháo gỡ điểm nghẽn dòng vốn, đưa nguồn lực vào các dự án hạ tầng giao thông trọng điểm, tạo hiệu ứng lan tỏa ngay lập tức tới các ngành vật liệu xây dựng và thị trường lao động.

Thứ ba, sức hút mạnh mẽ của dòng vốn FDI chất lượng cao. Việt Nam đang củng cố vững chắc vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tổng vốn FDI đăng ký bổ sung vào nền kinh tế 10 tháng đạt 31,52 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước.

Đặc biệt, vốn FDI thực hiện đạt 21,3 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm qua. Điều này chứng tỏ niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài không chỉ nằm ở cam kết mà đã chuyển hóa thành nguồn lực thực tế, thúc đẩy năng lực sản xuất mới.

Cuối cùng, chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ tăng trưởng. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ tốt hơn. Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng linh hoạt, giúp lãi suất cho vay bình quân giảm còn 6,55%, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn rẻ.

Đồng thời, chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, thông qua các gói giãn hoãn thuế và đẩy mạnh chi đầu tư, đã kích cầu tổng thể nền kinh tế mà vẫn kiểm soát được lạm phát dưới 4%.

Sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam không đến từ sự may mắn mà là kết quả của sự hội tụ các yếu tố nội lực và chính sách điều hành linh hoạt. Ảnh: TP.

Sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam không đến từ sự may mắn mà là kết quả của sự hội tụ các yếu tố nội lực và chính sách điều hành linh hoạt. Ảnh: TP.

Chiến lược tài chính phải đóng vai trò dẫn đường

Năm 2026 là năm đầu tiên trong chu kỳ tăng trưởng 5 năm mới (2026 - 2030), theo ông những yếu tố nào đang tạo thành rào cản cho sự phát triển của ngành tài chính Việt Nam?

- Năm 2026 là năm đầu của kế hoạch 5 năm 2026-2030, năm bản lề cho kỷ nguyên vươn mình. Tuy nhiên, các thách thức đối với an ninh tài chính quốc gia là không hề nhỏ. Về cơ bản, nền tài chính quốc gia đối diện với ba thách thức lớn.

Thứ nhất, áp lực huy động nguồn lực cho các dự án công trình trọng điểm quốc gia, các dự án, công trình quan trọng có quy mô và tầm ảnh hưởng lớn.

Theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội năm 2026, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 10% trở lên. Để đạt được điều này, nhu cầu vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng là rất lớn, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia như Đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, các dự án năng lượng theo Quy hoạch điện VIII và hạ tầng số.

Áp lực huy động vốn khổng lồ này đặt ra bài toán khó về cân đối vĩ mô: Làm sao huy động đủ vốn mà không gây chèn lấn vốn khu vực tư nhân, không đẩy lãi suất lên cao và vẫn giữ an toàn nợ công.

Thứ hai, rủi ro từ môi trường quốc tế và các "luật chơi" mới. Năm 2026, kinh tế thế giới dự báo vẫn khó khăn với mức tăng trưởng thấp. Rủi ro địa chính trị và sự phân mảnh thương mại tiếp tục đe dọa nguồn thu từ xuất nhập khẩu.

Đặc biệt, việc thực thi Thuế tối thiểu toàn cầu và các cơ chế như CBAM sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thu hút FDI và nguồn thu ngân sách, đòi hỏi Việt Nam phải có các chính sách ứng phó linh hoạt để vừa đảm bảo quyền đánh thuế quốc gia, vừa duy trì môi trường đầu tư hấp dẫn.

Cuối cùng, tính bền vững của nguồn thu và rủi ro thị trường tài chính. Thị trường tài chính trong nước (chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản) tuy đã phục hồi nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp và sự biến động của dòng vốn ngoại (FII) trong bối cảnh Fed có thể thay đổi chính sách.

Bên cạnh đó, nguồn thu ngân sách vẫn còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài (dầu thô, xuất nhập khẩu) và thị trường đất đai, trong khi thị trường bất động sản chưa thực sự ổn định bền vững do vướng mắc định giá đất.

Để duy trì đà tăng trưởng bền vững hướng tới mục tiêu tăng trưởng trên 2 con số vào năm 2026, ông có thể chia sẻ Bộ Tài chính đã có giải pháp gì nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy đầu tư công và tiêu dùng nội địa?

- Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng tham vọng trên 10% năm 2026, chính sách tài chính chuyển từ trạng thái "hỗ trợ phục hồi" sang "kiến tạo bứt phá".

Về hỗ trợ doanh nghiệp, chính sách tài khóa hướng tới "khoan thư sức dân". Bộ Tài chính sẽ tiếp tục các chính sách nuôi dưỡng nguồn thu thông qua việc rà soát, giảm, giãn hoãn thuế phí hợp lý.

Tuy nhiên, trọng tâm sẽ chuyển sang các chính sách ưu đãi có chọn lọc cho các ngành động lực mới: Công nghiệp bán dẫn, AI, năng lượng tái tạo. Các chính sách này nhằm kích thích đầu tư tư nhân vào công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo ra năng suất lao động cao hơn.

Về thúc đẩy đầu tư công và tiêu dùng nội địa, để đầu tư công thực sự là vốn mồi, Bộ sẽ kiến nghị sửa đổi Luật Đầu tư công theo hướng phân cấp mạnh mẽ, tách giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập để tháo gỡ điểm nghẽn lớn nhất hiện nay. Đồng thời, triển khai huy động nguồn lực qua phát hành trái phiếu Chính phủ cho các công trình trọng điểm.

Về tiêu dùng, các chính sách kích cầu (như giảm VAT, hỗ trợ du lịch) sẽ được nghiên cứu áp dụng linh hoạt để khai thác thị trường hơn 100 triệu dân. Điều chỉnh lương tối thiểu, hỗ trợ an sinh cho nhóm yếu thế để duy trì sức mua.

Kỳ vọng lớn nhất năm 2026 là sự bứt phá thành công về chất của nền kinh tế: Tăng trưởng GDP phấn đấu ở mức trên 10%, GDP bình quân đầu người 5.400 - 5.500 USD.

Đặc biệt FTSE Russell đã nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam lên thị trường mới nổi (Emerging Market), đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia có thị trường vốn tương đối phát triển. Điều này sẽ khơi thông dòng vốn ngoại quy mô lớn (dự kiến hàng tỷ USD) chảy vào thị trường vốn Việt Nam, giảm áp lực cung ứng vốn cho hệ thống ngân hàng.

Bộ Tài chính có định hướng và giải pháp trọng tâm gì để củng cố nền tài chính quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 2026-2030, thưa ông?

- Giai đoạn 2026-2030 là giai đoạn nước rút để hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chiến lược tài chính phải đóng vai trò dẫn đường và bảo đảm nguồn lực phục vụ tăng trưởng và đổi mới.

Thứ nhất, ổn định kinh tế vĩ mô và kỷ luật tài khóa. Bộ Tài chính sẽ ưu tiên duy trì kỷ luật và sự bền vững tài khóa trong dài hạn nhằm nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để đạt được sự ổn định và phát triển kinh tế bền vững.

Thứ hai, củng cố nền tảng tài chính số và dữ liệu. Thực hiện Chiến lược dữ liệu của Bộ Tài chính đến năm 2030, ngành Tài chính sẽ chuyển đổi toàn diện sang mô hình quản trị dựa trên dữ liệu (Data-driven). Hệ thống thuế, hải quan, kho bạc sẽ được số hóa, tự động hóa hoàn toàn, ứng dụng AI và Big Data để quản lý nguồn thu, chống thất thu và tạo thuận lợi tối đa cho người dân.

Thứ ba, phát triển thị trường tài chính xanh và bền vững. Tài chính xanh sẽ là xu hướng chủ đạo. Bộ Tài chính sẽ hoàn thiện khung khổ pháp lý cho thị trường trái phiếu xanh, thị trường tín chỉ carbon, và các công cụ tài chính hỗ trợ chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP). Điều này không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết Net Zero mà còn mở ra kênh huy động vốn mới từ quốc tế.

Thứ tư, cơ cấu lại ngân sách và đổi mới mô hình tăng trưởng. Bộ Tài chính sẽ tiếp tục cơ cấu lại NSNN theo hướng bền vững: tăng tỷ trọng thu từ sản xuất kinh doanh, giảm phụ thuộc vào tài nguyên đất đai.

Chi ngân sách sẽ tập trung cho con người (y tế, giáo dục) và hạ tầng số, khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý thu, chi ngân sách nhà nước theo hướng bền vững. Đây là nền tảng để đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu.

Xin cảm ơn ông!


Nguồn:https://congluan.vn/su-tang-truong-cua-kinh-te-viet-nam-nam-2025-khong-den-tu-su-may-man-10323900.html Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết